GIÁO LÝ HÔN NHÂN - BÀI 2
Thứ Ba, 27 tháng 5, 2014
Bài 2 : Hôn nhân Công giáo
1. Hôn nhân Công giáo
là một bí tích
2. Đặc tính của hôn
nhân Công giáo
2.1.
Đơn nhất
2.2.
Bất khả phân ly
3. Hiệu quả bí tích
Hôn phối
3.1.
Dây hôn phối
3.2.
Ân sủng của bí tích Hôn phối
4 GHI NHỚ :
4 GỢI Ý SUY NGHĨ
:
4 CẦU NGUYỆN :
Bởi thế, người ta lìa bỏ cha
mẹ mình mà kết hợp với vợ mình và cả hai nên một thân xác. Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh.
(Ep 5,31-32)
(Ep 5,31-32)
Khi một người nam và một người nữ kết hôn, họ trở
thành vợ chồng theo luật tự nhiên. Hôn nhân của họ là một khế ước, có giá trị
trước mặt Thiên Chúa. Đối với người Kitô hữu, hôn nhân không chỉ là một khế
ước, mà còn là một bí tích. Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Hôn nhân là bí tích tình
yêu... Khi vợ chồng nên một trong hôn nhân, cả hai không còn là hình ảnh dưới
trần nữa, mà là hình ảnh của Chúa trên trời.”
1. Hôn nhân Công giáo
là một bí tích
Từ xưa đến nay, hầu như nền văn hoá nào cũng coi hôn
nhân là việc linh thiêng. Vì thế, trước khi về chung sống với nhau, cô dâu chú
rể thường xin trời đất, thần linh hoặc ông bà tổ tiên chứng giám và phù hộ cho
cuộc hôn nhân của mình qua một nghi lễ công khai và long trọng.
Trong Cựu Ước, giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài
thường được ví như một cuộc hôn nhân thuỷ
chung, duy nhất[1][1]. Sang Tân Ước, hôn nhân được coi là hình
ảnh sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội Thánh[2][2]. Đức
Kitô được ví như chàng rể của giao ước mới[3][3]. Còn Hội Thánh được ví như cô dâu, đã
được Đức Kitô yêu thương đến hy sinh mạng sống[4][4].
“Ngay khi bắt đầu đời sống công khai, Chúa Giêsu đã có
mặt trong một tiệc cưới tại Cana và đã làm dấu lạ đầu tiên, biến nước thành
rượu để giúp hai họ nối tiếp cuộc vui (Ga 2,1-11). Sự hiện diện này được Hội
Thánh hiểu như là một chứng thực của Đức Kitô đối với giá trị hôn nhân, đồng
thời cũng tiên báo sự hiện diện thường xuyên của Ngài trong đời sống hôn nhân[5][5]”.
“Trong khi rao giảng, Chúa Giêsu dạy rõ ràng về ý
nghĩa nguyên thủy của việc phối hợp giữa người nam và người nữ như thuở ban đầu
Đấng Tạo Hóa đã muốn. Sự phối hợp này là bất
khả phân ly. Việc Môsê cho phép bỏ vợ là một nhượng bộ trước lòng chai
dạ đá của người nam (x. Mt 19, 3-8)[6][6]”.
“Khi tái lập trật tự ban đầu của công trình sáng tạo
đã bị tội lỗi làm xáo trộn, Chúa Giêsu đã ban sức mạnh và ân sủng để các đôi vợ
chồng sống đời hôn nhân trong chiều kích mới của Nước Thiên Chúa. Ân sủng của
hôn nhân Kitô giáo là hoa quả của Thánh Giá Đức Kitô, nguồn mạch mọi đời sống
Kitô hữu[7][7]”.
“Thánh Phaolô cho thấy điều đó khi nói: “Người làm
chồng hãy yêu thương vợ như Đức Kitô đã yêu thương Hội Thánh, và hiến mình vì
Hội Thánh để thánh hóa Hội Thánh” (Ep 5, 25-26). Ngài còn nói thêm: “Bởi thế, người ta lìa bỏ cha mẹ mình mà kết hợp với vợ mình
và cả hai nên một thân xác. Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức
Kitô và Hội Thánh.” (Ep 5, 31-32)[8][8].
“Toàn bộ đời sống Kitô giáo mang dấu ấn của tình yêu
“hôn nhân” giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Bí tích Thánh tẩy, cửa ngõ dẫn vào Dân
Thiên Chúa, cũng đã là một mầu nhiệm “hôn nhân”: có thể nói đó là nghi thức
thanh tẩy (x. Ep 5, 26-27) trước khi bước vào tiệc cưới là bí tích Thánh Thể.
Hôn nhân Kitô giáo trở thành dấu chỉ giao ước giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Hôn
nhân giữa hai người đã được rửa tội là một bí tích thực sự của Giao ước Mới, vì
nó biểu thị giao ước giữa Đức Kitô và Hội Thánh, và thông ban ân sủng cho họ[9][9]”.
Như vậy, ta có thể nói, Thiên Chúa đã thiết lập khế
ước hôn nhân ngay trong vườn địa đàng, giữa người nam và người nữ đầu tiên. Còn
Chúa Giêsu, Ngài đã nâng hôn ước đó lên hàng Bí tích.
Qua bí tích hôn phối, tình yêu của hai vợ chồng được
Thiên Chúa đóng ấn; họ nhận được những ơn siêu nhiên giúp họ sống ơn gọi hôn
nhân và gia đình, và trở nên dấu chỉ mầu nhiệm Đức Kitô kết hiệp với Hội Thánh.
2. Đặc tính của hôn
nhân Công giáo
Tình yêu giữa hai vợ chồng Công giáo có ý nghĩa rất
phong phú và sâu sắc, vì bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa và rập theo khuôn mẫu
tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Tình yêu đó có hai đặc tính là đơn nhất và
bất khả phân ly.
2.1.
Đơn nhất
Đơn nhất nghĩa là một vợ một chồng. “Tự bản chất, tình
yêu vợ chồng đòi hỏi sự đơn nhất và bất khả phân ly. “Họ không còn phải là hai,
nhưng là một xương một thịt” (x. Mt 19, 6; St 2,
24). Họ được mời gọi không ngừng lớn lên trong tình hiệp thông với nhau qua
việc mỗi ngày trung thành sống lời cam kết hôn nhân, là trao hiến trọn vẹn cho
nhau. Sự hiệp thông này được củng cố, thanh luyện và hoàn thiện nhờ bí tích Hôn
phối đem lại sự hiệp thông trong Đức Kitô. Sự hiệp thông này càng thâm sâu hơn
nhờ cùng chia sẻ một đức tin và cùng đón nhận Mình Thánh Chúa[10][10].”
“Phải nhìn nhận sự bình đẳng giữa vợ chồng trong tình
tương thân tương ái trọn vẹn, để nhờ đó biểu hiện rõ ràng tính đơn nhất của hôn
nhân đã được Đức Kitô xác nhận. Đa thê là đi ngược với tình yêu vợ chồng, cũng
như với sự bình đẳng giữa hai vợ chồng[11][11].”
2.2.
Bất khả phân ly
Bất khả phân ly nghĩa là không thể ly dị. “Lý do sâu
xa nhất đòi hỏi hai vợ chồng phải chung thủy chính là sự trung tín của Thiên
Chúa với giao ước, và sự trung tín của Đức Kitô với Hội Thánh. Nhờ bí tích Hôn
phối, hai vợ chồng được ban ơn để diễn tả và làm chứng cho sự trung tín ấy. Do
bí tích, tính bất khả phân ly của hôn nhân tiếp nhận một ý nghĩa mới và sâu xa
hơn[12][12].”
Ngoài ra sự liên kết mật thiết
giữa hai vợ chồng, cũng như lợi ích của con cái, buộc hai vợ chồng phải hoàn
toàn trung tín với nhau[13][13].
Chung thuỷ suốt đời với người phối ngẫu là một trong
những đặc điểm nổi bật của hôn nhân Công giáo, đồng thời còn có ý nghĩa đặc
biệt hơn đối với thế giới hiện nay, khi mà ly dị thường được coi là giải pháp
bình thường cho những khó khăn hoặc thất bại trong đời sống hôn nhân. Quả thực,
đối với nhiều trường hợp, chung thuỷ là một thách đố lớn lao và phải cậy dựa
vào ơn Chúa, vì chỉ nhờ sức riêng của mình mà thôi thì không đủ. Trong đời sống
hôn nhân, đôi vợ chồng cần nhớ rằng sự liên kết với nhau không phải chỉ do
quyết tâm của họ mà còn là kết quả của ơn Chúa. “Điều gì Thiên Chúa đã
kết hợp, thì loài người không được phân ly”(Mt 19,6). Hội Thánh
không ngừng cầu nguyện cho các đôi vợ chồng được trung thành với nhau suốt đời.
Ngược lại, chính Hội Thánh cũng được nâng đỡ luôn trung tín với Chúa Giêsu nhờ
sự chung thuỷ của các đôi vợ chồng.
3. Hiệu quả bí tích
Hôn phối
“Do hôn nhân hợp pháp, giữa vợ chồng phát sinh một mối
dây ràng buộc vĩnh viễn và độc nhất tự bản chất. Hơn thế nữa, trong Kitô giáo,
vợ chồng được Thiên Chúa tăng sức và thánh hiến bằng một bí tích riêng biệt, để
chu toàn những bổn phận và sống xứng đáng bậc sống của mình[14][14].”
Bí tích Hôn phối đem lại hai hiệu quả:
3.1.
Dây hôn phối
“Sự
ưng thuận tự do, qua đó đôi phối ngẫu tự trao hiến và tiếp nhận nhau, được
chính Thiên Chúa đóng ấn. Từ hôn ước của họ phát sinh một định chế. Định chế
này đã được chính Thiên Chúa ấn định và có giá trị trước mặt xã hội. Hôn ước
được liên kết với giao ước Thiên Chúa ký kết với nhân loại: Tình yêu vợ chồng
đích thực được hoà nhập trong tình yêu Thiên Chúa[15][15].”
“Dây hôn phối do chính
Thiên Chúa liên kết, nên hôn nhân thành sự và hoàn hợp, giữa hai người đã được
rửa tội, không bao giờ được tháo gỡ. Dây
liên kết này là kết quả của việc hai người tự nguyện kết hôn và do sự
hoàn hợp của hôn phối. Đây là một thực tại
không thể đảo ngược, và trở thành một giao ước được Thiên Chúa trung tín bảo đảm. Hội Thánh không có quyền nói
ngược lại sự an bài khôn ngoan của Thiên Chúa[16][16].”
3.2.
Ân sủng của bí tích Hôn phối
Ân sủng đặc biệt của bí tích Hôn phối kiện toàn tình
yêu vợ chồng, củng cố sự hiệp nhất bất khả phân ly của họ. “Nhờ ân sủng này, họ giúp nhau nên thánh
trong đời sống hôn nhân, trong việc đón nhận và giáo dục con cái”.[17][17]
“Đức Kitô là nguồn mạch ân
sủng đặc biệt này. Như xưa, Thiên Chúa đến gặp Dân Ngài bằng một giao ước yêu
thương và trung thành, thì ngày nay, Đấng Cứu Thế, Bạn Trăm Năm của Hội Thánh
cũng đến với đôi vợ chồng qua bí tích Hôn phối. Ngài ở lại với họ, ban cho họ
sức mạnh để họ vác thập giá theo Ngài, để họ chỗi dậy mỗi khi sa ngã, để họ tha
thứ cho nhau, mang gánh nặng cho nhau, “phục tùng nhau trong sự kính sợ Đức
Kitô” (Ep 5,21), và yêu thương nhau với một tình yêu siêu nhiên, tế nhị và
phong phú. Trong khi họ vui hưởng tình yêu và cuộc sống gia đình, Ngài ban cho
họ, ngay từ đời này, được nếm trước hạnh phúc Nước Trời[18][18].”
4 GHI NHỚ :
1. H. Hôn nhân Công giáo là gì?
T. Hôn nhân Công giáo là bí tích
Chúa Giêsu đã lập, để kết hợp hai người tín hữu, một nam một nữ, thành vợ chồng
trước mặt Thiên Chúa và
Hội Thánh, cùng ban ơn giúp họ sống xứng
đáng ơn gọi của mình.
2. H. Hôn nhân Công giáo có những
đặc tính nào?
T. Hôn nhân Công giáo có hai đặc tính này:
- Một là đơn nhất, nghĩa là một vợ một chồng.
- Hai là bất khả
phân ly, nghĩa là trung thành yêu thương nhau trọn đời.
3. H. Bí tích Hôn phối ban cho vợ
chồng những ơn nào?
T. Bí tích Hôn
phối ban ơn giúp các đôi vợ chồng yêu thương nhau, như Đức Kitô đã yêu thương
Hội Thánh, kiện toàn tình yêu tự nhiên, củng cố sự hiệp nhất bất khả phân ly và
thánh hoá họ trong đời sống siêu nhiên.
4 GỢI Ý SUY NGHĨ
:
1. Khi nhìn vào tình yêu Đức Kitô dành cho Hội Thánh,
anh chị học được điều gì cho tình yêu của anh chị?
2. Trung thành với nhau đến chết phải chăng là một
thách đố?
3. Ân sủng bí tích Hôn phối mang lại điều gì cho đời
sống hôn nhân?
4 CẦU NGUYỆN :
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương Hội Thánh đến độ đã
hiến mình vì Hội Thánh để Hội Thánh được xinh đẹp lộng lẫy, thánh thiện tinh
tuyền. Chúng con đang đứng trước ngưỡng cửa ơn gọi hôn nhân và gia đình, xin
cho chúng con biết đến với Chúa, lắng nghe Lời Chúa, nhìn ngắm mẫu gương của
Chúa, để học biết yêu thương như Chúa. Xin đổ Thánh Thần Tình yêu của Chúa
xuống trên chúng con để chúng con có đủ can đảm bước theo con đường Chúa đang
mời gọi chúng con. Amen.
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét